1. Thông báo rút kinh nghiệm số 248/TB-VPT2 ngày 23/7/2004.
Qua công tác KSXX giải quyết án kinh tế, Viện THQCT và KSXX phúc thẩm tại Đà Nẵng thấy việc lập hồ sơ xét xử có những thiếu sót:
Án kinh tế sơ thẩm số 09 ngày 21/4/2004 của TAND thành phố Đ quyết định:
- Chấp nhận đơn khởi kiện của công ty Pin ắc quy Miền Nam.
- Áp dụng khoản 1 Điều 29 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế và Điều 21 Nghị định số 17/HĐBT ngày 16/1/1990 của Hội đồng bộ trưởng nay là Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh hợp đồng kinh tế. Buộc hợp tác xã dịch vụ và thương mại Hợp lực phải thanh toán cho công ty Pin ắc quy Miền Nam số tiền nợ sản phẩm Pin ắc quy là 501.990.725đ và tiền lãi phạt hợp đồng do chậm thanh toán là 20.203.831đ. Tổng cộng 2 khoản là 522.293.556đ, được khấu trừ tiền hợp tác xã ký quỹ 20.000.000đ, còn 502.293.556đ. Hợp tác xã Thương mại Hợp lực phải chịu 18.044.000đ tiền án phí kinh tế sơ thẩm.
- Ngày 28/4/2004 bị đơn hợp tác xã thương mại Hợp Lực kháng cáo đề nghị xem xét lại toàn bộ vụ án và buộc ông Trần Xuân Khoa có trách nhiệm phải trả nợ.
*Nội dung vụ án: Được sự uỷ quyền của Giám đốc công ty, ngày 2/1/2003 Chi nhánh công ty Pin ắc quy Miền Nam tại thành phố Đ ký hợp đồng số 03 với hợp tác xã dịch vụ thương mại Hợp Lực làm đại lý tiêu thụ sản phẩm ắc quy. Hợp tác xã được trích lại tiền hoa hồng 2% trên doanh số bán hàng trước thuế và có nghĩa vụ thanh toán trong hạn 30 ngày. Nếu chậm thanh toán bị phạt 0,025% ngày trên số nợ quá hạn. Thực hiện hợp đồng trên công ty Pin ắc quy cấp đủ số lượng theo yêu cầu của hợp tác xã và trích đủ tiền hoa hồng theo cam kết. Nhưng hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán cho công ty Pin ắc quy. Theo biên bản thanh lý hợp đồng, đối chiếu công nợ, năm 2003 thì hợp tác xã còn nợ của công ty số tiền hàng là: 501.990.725đ và lãi chậm thanh toán 20.302.831đ. Cộng 2 khoản là 522.293.556đ, được khấu trừ 20.000.000đ, hợp tác xã ký quỹ thì còn nợ 502.293.556đ.
Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 19/7/2004 đại diện Viện Phúc thẩm nhận định:
Nguyên đơn khởi kiện hợp đồng năm 2003 với hợp tác xã nhưng từ trước đó công ty Pin ắc quy đã ký nhiều hợp đồng khác với hợp tác xã, qua hàng năm có đối chiếu công nợ và số nợ năm trước được chuyển sang hợp đồng năm sau cộng tiếp nên số nợ nhiều, thực tế chỉ tính riêng hợp đồng năm 2003 thì không phải nợ 502.293.558đ. Từ năm 1998 đến năm 2003 hợp tác xã làm dịch vụ này mới ra đời và ký hợp đồng với công ty, còn từ các năm trước 1996 - 1997 do vợ chồng Nguyễn Thị Hoa và Trần Xuân Khoa ký hợp đồng với công ty với tư cách cá nhân, hàng năm khi thanh lý hợp đồng cá nhân vẫn còn nợ không thanh toán dứt điểm mà chuyển tiếp cho các năm sau cho đến hợp đồng năm 2003. Tại Tòa Phúc thẩm nguyên đơn, bị đơn đều thừa nhận số tiền hợp tác xã nợ của công ty hiện nay có nợ của các hợp đồng cá nhân Hoa và Kha ký những năm trước đó. Như vậy cấp sơ thẩm có thiếu sót không điều tra xem xét rõ thời điểm ký các hợp đồng. Không tách riêng giá trị các hợp đồng của cá nhân, của hợp tác xã và các khoản nợ phải trả của cá nhân, tập thể, xác định rõ phần nào thuộc lĩnh vực dân sự hay kinh tế nhằm giải quyết đúng đắn vụ án. Riêng trong hợp đồng năm 2003 cũng không nêu hợp tác xã phải chịu trách nhiệm trả các khoản nợ của hợp tác xã là bao nhiêu mà nhập tất cả các hợp đồng và các khoản nợ từ trước của cá nhân là không đúng.
Từ nhận định trên đại diện Viện Phúc thẩm đề nghị áp dụng khoản 3 Điều 70 pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế huỷ án sơ thẩm để điều tra xử lại nhằm khắc phục sai sót mà cấp phúc thậm không thể bổ sung được. Đề nghị trên được hội đồng xét xử Tòa Phúc thẩm chấp nhận.
2. Thông báo rút kinh nghiệm số 404/TB-VPT2 ngày 8/12/2005 qua xét xử một số vụ án kinh tế.
Qua KSXX giải quyết một số vụ án kinh tế của TAND tỉnh B xét xử sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm vào cuối năm 2005, Viện Phúc thẩm 2 nhận thấy có một số vụ Tòa sơ thẩm xét xử có vi phạm cần thông báo rút kinh nghiệm chung như sau:
Vụ án tranh chấp hợp đồng thuê phương tiện giữa nguyên đơn doanh nghiệp tư nhân (DNTN) Phước Hòa với bị đơn công ty cổ phần Hàng Hải (CPHH) B:
Ngày 1/4/2003 ông Lê Tấn Bửu giám đốc xí nghiệp chế biến đá xuất khẩu (XNCB) là đơn vị thành viên của công ty CPHH B được giám đốc công ty này ủy quyền ký hợp đồng kinh tế số 06 với DNTN Phước Hòa thuê xe đào khai thác đá với đơn giá 2.000.000đ/ca, tổng giá trị hợp đồng là 160.000.000đ, thời gian thực hiện hợp đồng từ ngày1/4/2003 đến 30/11/2003. Quá trình thi công hai bên đã nghiệm thu, đối chiếu công nợ, thanh lý hợp đồng thì công ty CPHH B còn nợ doanh nghiệp tư nhân (DNTN) Phước Hòa giá trị ca đào phải thanh toán là 127.857.000đ.
DNTN Phước Hòa có nhiều văn bản yêu cầu công ty CPHH B trả số tiền nêu trên nhưng công ty CPHH Bình Định từ chối với lý do: Giám đốc công ty ủy quyền cho ông Bửu có tính chất quản lý xí nghiệp, chứ không phải ủy quyền để ký hợp đồng nhưng ông Bửu tự ký hợp đồng thuê xe đào của DNTN Phước Hòa, công ty không biết. Do đó DNTN Phước Hòa có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa kinh tế TAND B giải quyết buộc công ty CPHH B bồi thường số tiền 127.857.000đ.
Với nội dung trên, TAND tỉnh B áp dụng Điều 8, 9 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế, điểm a, b, c, d mục 2 phần I Nghị quyết 04 ngày 27/5/2005 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn một số qui định của pháp luật trong việc giải quyết các vụ án kinh tế, tuyên xử: Hợp đồng kinh tế số 06 ngày 1/4/2003 ký kết giữa DNTN Phước Hòa với công ty CPHH B là vô hiệu vì ông Lê Tấn Bửu- giám đốc XNCB đá xuất khẩu sử dụng giấy ủy quyền không hợp pháp, nhân danh công ty CPHH Bình Định ký hợp đồng không đúng thẩm quyền; bác đơn khởi kiện của DNTN Phước Hòa đòi công ty CPHH B phải bồi thường 127.857.000đ. Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên phần án phí và kháng cáo.
Tương tự như vụ án nêu trên còn có bản án kinh tế sơ thẩm số 06 ngày 14/6/2005 xử bác đơn yêu cầu của nguyên đơn là công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) Nam Á đòi công ty CPHH B mà đại diện là ông Lê Tấn Bửu- giám đốc XNCB đá xuất khẩu với công ty TNHH Nam Á về việc mua bán đá xuất khẩu là vô hiệu. Và bản án số 07 ngày 5/6/2005 xử bác đơn yêu cầu của công ty TNHH 28-7 đòi công ty CPHH B bồi thường số tiền 88.143.000đ, vì HĐKT số 07 ngày 19/4/2003 ký kết giữa công ty CPHH B đại diện là ông Lê Tấn Bửu- giám đốc XNCB đá xuất khẩu với công ty TNHH 28-7 về việc khoan đá mở đường là vô hiệu.
Ba vụ án kinh tế nêu trên, sau khi xét xử sơ thẩm, trong hạn luật định VKSND tỉnh B kháng nghị phúc thẩm và các nguyên đơn kháng cáo có nội dung yêu cầu Tòa Phúc thẩm đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm theo hướng cải sửa án sơ thẩm, chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn.
Ngày 4/11/2005, Tòa Phúc thẩm tại Đà Nẵng đưa các vụ án ra xét xử phúc thẩm. Theo đề nghị của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa, Hội đồng xét xử đã chấp nhận kháng nghị và kháng cáo buộc công ty CPHH B phải thanh toán cho các nguyên đơn số tiền trên.
Qua giải quyết 3 vụ án kinh tế nêu trên, cho thấy:
Xí nghiệp chế biến đá xuất khẩu do ông Lê Tấn Bửu làm giám đốc là đơn vị thành viên hạch toán báo sổ trực thuộc của công ty CPHH B. Ông Bửu ký HĐKT số 06 ngày 1/4/2003 thuê xe đào của DNTN Phước Hòa để khai thác đá; ký hợp đồng kinh tế số 02 ngày 20.6.2002 bán đá xuất khẩu cho công ty TNHH Nam Á; Ký hợp đồng kinh tế số 07 ngày 19/4/2003 về việc khoan đá mở đường để khai thác đá đều có tờ trình của giám đốc xí nghiệp được Chủ tịch hội đồng quản trị công ty phê duyệt và giám đốc công ty CPHH B có giấy ủy quyền cho giám đốc xí nghiệp ông Lê Tấn Bửu đại diện ký kết các hợp đồng kinh tế nêu trên. Các hợp đồng đó là thuê phương tiện cơ giới khoan đá, mở đường tạo ra sản phẩm hàng hóa cho công ty CPHH Bình Định chứ không phải riêng XNCB đá xuất khẩu.
Án sơ thẩm nhận định: Đại diện theo pháp luật của công ty CPHH B là Chủ tịch HĐQT nhưng giám đốc công ty ủy quyền cho xí nghiệp ký kết các HĐ là không đúng thẩm quyền, việc ông Bửu- giám đốc xí nghiệp kí kết các hợp đồng kinh tế với các đơn vị để mở đường, khai thác mua bán đá xuất khẩu là không hợp pháp nên tuyên các hợp đồng đó là vô hiệu, là trái với Nghị quyết 04/2003/HĐTP ngày 27/5/2003 hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong việc giải quyết các vụ án kinh tế. Khoản 2 phần I Nghị quyết nêu rõ: “Để phù hợp với quy định tại Điều 154 BLDS thì hợp đồng kinh tế không bị coi là vô hiệu toàn bộ, nếu người kí hợp đồng kinh tế không đúng thẩm quyền nhưng trong quá trình thực hiện hợp đồng kinh tế, người mà theo quy định của pháp luật có thẩm quyền ký kết hợp đồng kinh tế đó chấp nhận. Được coi là người có thẩm quyền chấp thuận nếu người đó đã biết hợp đồng kinh tế đã được ký kết mà không phản đối”.
Nguyên nhân chính của sai phạm trên là nhận thức, áp dụng không đúng Nghị quyết 04/2003/ NQ-HĐTP dẫn đến việc xét xử không phù hợp với thực tế khách quan vụ án.
Tuy nhiên án sơ thẩm bị kháng nghị và kháng cáo, Tòa Phúc thẩm tại Đà Nẵng đã chấp nhận, xử cải sửa án sơ thẩm buộc công ty CPHH B trả số tiền trên cho các nguyên đơn là có căn cứ, đảm bảo sự công minh của pháp luật.
Ghi chú: Một số địa danh nơi xảy ra và giải quyết vụ việc đã được Ban biên tập thay đổi.
Nguồn: Trích cuốn: "Tuyển chọn thông báo rút kinh nghiệm, kiến nghị nghiệp vụ của các Viện phúc thẩm"
Chủ biên: TS. Dương Thanh Biểu
Sách của: NXB Tư Pháp năm 2009
3. Thông báo rút kinh nghiệm vụ án kinh doanh thương mại bị huỷ để xét xử lại do xác định sai tư cách tham gia tố tụng.
Nguồn: Thông báo số 251/TB-VKSNSTC-VPT2 ngày 29/05/2012
Thông qua công tác kiểm sát giải quyết vụ án kinh doanh thương mại “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 45C/2012/QĐ-PT ngày 27/02/2012 của Toà phúc thẩmToà án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng. Viện thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm tại Đà Nẵng thấy cần thông báo vi phạm của Toà án cấp sơ thẩm trong việc xác định tư cách tham gia tố tụng đến các Viện kiểm sát nhân dân các tỉnh, thành phố nghiên cứu rút kinh nghiệm.
Nội dung vụ án :
Nguyên đơn Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh Chu Lai (gọi tắt là Ngân hàng Nông nghiệp Chu Lai) cho rằng: Ngày 02/6/2005 Ngân hàng Nông nghiệp Chu Lai cho Công ty TNHH Thành Tài (gọi tắt là Cty Thành Tài) vay 2.000.000.000 đồng (hai tỷ) theo Hợp đồng tín dụng số 29040075/1. Sau đó ngàỵ 8/6/2005 lại tiếp tục cho Cty Thành Tài vay 1.000.000.000 đồng (một tỷ) theo Hợp đồng tín dụng số 290400767/1. Đảm bảo cho hai khoản vay trên, Cty Thành Tài thế chấp nhà xưởng sản xuất, trị giá 5.217.000.000 đồng theo Hợp đồng thế chấp sổ 64A/2005/TC và cầm cố máy móc thiết bị, trị giá 964.296.000 đồng theo Hợp đồng cầm cố tài sản số 64B/2005/CC.
Đến thời hạn trả nợ, Cty Thành Tài không trả nợ, Ngân hàng đã gia hạn thêm 3 tháng, nhưng Cty Thành Tài cũng không trả được nợ. Tính đến ngày 02/6/2008 thì Cty Thành Tài còn nợ Ngân hàng Chu Lai, số tiền của Hợp đồng tín dụng 290400767/1 là 1.000.000.000đ tiền gốc, 104.716.670đ tiền lãi trọng hạn và 324.965.000đ lãi quá hạn; số tiền của Hợp đồng tín dụng 29040075/1 là 2.000.000.000đ tiền gổc, 206.893.330đ lãi trong hạn, 744.580.000đ lãi quá hạn.
Do Cty Thành Tài vi phạm cam kết, nên Ngân hàng Nông nghiệp Chu Lai khởi kiện yêu cầu Cty Thành Tài phải trả số nợ của 2 hợp đồng tín dụng trên.
Cty Thành Tài (bà Lương Thị Liễu - Giám đốc) công nhận các khoản vay của 2 hợp đồng tín dụng, nhưng cho rằng chỉ có khoản vay 1.000.000.000đ (một tỷ) của Hợp đồng tín dụng 290400767/1 là đến hạn ngày 8/9/2006 trả nợ, còn khoản vay 2.000.000.000đ (hai tỷ) chưa đến hạn trả nợ, thời hạn vay đến năm 2010. Vì vậy việc Ngân hàng Nông nghiệp Chu Lai yêu cầu Cty Thành Tài trả lãi quá hạn là không đúng.
Quá trình giải quyết vụ án:
Tại bản án sơ thẩm số 11/2007/KDTM-ST ngày 23/4/2007 của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Nam đã áp dụng khoản 5 Điều 474; Điều 305 BLDS; Điều 54 Luật các tổ chức tín dụng xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Nông nghiệp Chu Lai, buộc Cty Thành Tài trả cho Ngân hàng Nông nghiệp Chu Lai sô tiên 3.696.375.000đ, trong đó nợ gốc 3.000.000.000đ, nợ lãi tính đến ngày 23/4/2007 là 696.375.000đ.
Tại bản án phúc thẩm số 42/2007/KDTM-PT ngày 9/8/2007 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng tuyên Giữ nguyên bản án sơ thâm sô 11/2007/ KDTM-ST của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Nam.
Căn cứ bản án phúc thẩm số 42/2007/KDTM-PT ngày 9/8/2007 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng, Cục thi hành án dân sự tỉnh Quảng Nam đã tiến hành xử lý bán đấu giá tài sản cầm cố thế chấp của hai hợp đồng tín dụng nêu trên và chi trả cho Ngân hàng Nông nghiệp Chu Lai 3.696.375.000đ, đồng thời giao tài sản đấu giá cho Cty Indevco (đơn vị trúng đấu giá) sở hữu.
Tại Quyết định Giám đốc thẩm số 13/2010/KDTM-GĐT ngày 11/8/2010 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đã tuyên Huỷ bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 42/2007/KDTM-PT ngày 9/8/2007 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng và huỷ bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 11/2007/ KDTM-ST ngày 23/4/2007 của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Nam, giao vụ án cho Toà án nhân tỉnh Quảng Nam thụ lý và xét xử lại theo thủ tục chung.
Tại bản án số 04/KDTM-ST ngàỵ 21/01/2011 của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Nam căn cứ Điều 258; khoản 5 Điều 474; Điều 305 BLDS và Điều 54 Luật các tổ chức tín dụng, tuyên xử: chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Nông nghiệp Chu Lai, buộc Cty Thành Tài trả cho Ngân hàng Nông nghiệp Chu Lai số tiền 4.381.155.000đ, trong đó nợ gổc 3.000.000.000đ, nợ lãi 1.381.155.000đ.
Tại bản án số 21/2012/KDTM-PT ngày 21 tháng 3 năm 2012 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Đà Nằng đã căn cứ khoản 3 Điều 275; Điều 277 BLTTDS tuyên huỷ bản án sơ thẩm số 04/KDTM-ST ngày 21/01/2011 của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Nam để xét xử ỉại theo quy định của pháp luật.
Những vấn đề cần rút kinh nghiệm thông qua vụ án :
Đây là vụ án đã được cấp sơ thẩm, phúc thẩm xét xử, cấp giám đốc thẩm huỷ cả hai bản án sơ phúc thâm để xét xử lại. Toà án cấp sơ thẩm đã thụ lý xét xử lại vụ án, nhưng có vi phạm nghiêm trọng trong việc xác định tư cách pháp lý của người tham gia tố tụng, cụ thể:
Ngày 30/8/2007 Sở kế hoạch và đầu tư tỉnh Quảng Nam đã có Thông báo số 27/TB-DN về việc thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của Công ty Thành Tài, yêu cầu Công ty tiến hành giải thể doanh nghiệp theo đúng quy định của Luật Doanh nghiệp, nhưng đến nay Cty Thành Tài vẫn chưa tiến hành thủ tục giải thể theo quy định.
Theo quy định tại khoản 6 Điều 158 Luật Doanh nghiệp thì “Trường hợp doanh nghiệp bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng kỷ kinh doanh, doanh nghiệp phải giải thể trong thời hạn sáu tháng, kể từ ngày bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng kỷ kinh doanh. Sau thời hạn sáu tháng quy định tại khoản này mà cơ quan đăng kỷ kinh doanh không nhận được hổ sơ giải thế doanh nghiệp thì doanh nghiệp đó coi như đã được giải thể và cơ quan đăng ký kinh doanh xoá tên doanh nghiệp trong sổ đăng ký kinh doanh”, “ Trong trường hợp này, người đại diện theo pháp luật, các thành viên đối với công ty trách nhiệm hữu hạn, ...liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác chưa thanh toán”.
Do vậy, tại thời điểm ngày 27/10/2010 Toà án nhân dân tỉnh Quảng Nam thụ lý giải quyết lại vụ án theo Quyết định Giám đốc thẩm số 13/2010/KDTM-GĐT thì Công ty Thành Tài không còn tham gia tố tụng với tư cách là bị đơn, mà bị đơn là bà Lương Thị Liễu (Đại diện theo pháp luật của Cty Thành Tài đã bị giải thể) và bà Lương Thị Tân (thành viên của Cty Thành Tài đã bị giải thể) theo quy định tại Điều 38 Luật Doanh nghiệp “Thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi so vốn cam kết góp vào doanh nghiệp
Như vậy, Toà án nhân dân tỉnh Quảng Nam khi thụ lý giải quyết lại vụ án vẫn xác định Cty Thành Tài tham gia tố tụng với tư cách bị đơn là không đúng quy định của pháp luật.
Thông qua công tác kiểm sát xét xử vụ án, Viện thực hành quyền công tổ và kiểm sát xét xử phúc thẩm tại Đà Nẵng thông báo đến các Viện kiêm sát địa phương rút kinh nghiệm chung nhằm thực hiện tốt công tác kiểm sát xét xử án kinh doanh thương mại trong thời gian tới.
VKSND tỉnh Khánh Hòa