Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự, Viện kiểm sát nhân dân có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đối với bản án và quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân chưa có hiệu lực pháp luật.
Kháng nghị phúc thẩm là một hoạt động quan trọng của Viện kiểm sát nhân dân và chỉ Viện kiểm sát mới có quyền kháng nghị phúc thẩm.
Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức Viện kiểm sát năm 2014 quy định chức năng của Viện kiểm sát nhân dân là thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt độngt ư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tại các Điều 3, 4, 5 Luật Tổ chức Viện kiểm sát 2014 cũng quy định rõ, khi thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, Viện kiểm sát có quyền kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án trong trường hợp Viện kiểm sát nhân dân phát hiện oan, sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội; kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm pháp luật…; kháng nghị hành vi, quyết định có vi phạm pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền khác trong hoạt động tư pháp. Điều 18, 19 Luật TCVKS quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, khi kiểm sát xét xử vụ án hình sự như: kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án trong trường hợp phát hiện oan sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội; kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng.
Như vậy, kháng nghị phúc thẩm hình sự là quyền riêng có của Viện kiểm sát nhân dân khi thực hành quyền công tố và xét xử các vụ án hình sự. Luật Tố tụng hình sự 2003, Điều 232 quy đinh: Viện kiểm sát cùng cấp và Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị bản án hoặc quyết định sơ thẩm”. Bởi lẽ, Viện kiểm sát là cơ quan duy nhất có quyền truy tố người phạm tội ra trước tòa để xét xử cũng như Viện kiểm sát có nhiệm vụ thực hiện kiểm sát hoạt động điều tra, truy tố, xét xử nhằm đảm bảo cho các hoạt động này đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Cũng nhằm đảm bảo cho quyết định truy tố, xét xử đúng pháp luật; khi phát hiện bản án, quyết định sơ thẩm có vi phạm, Viện kiểm sát có quyền kháng nghị để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại. Đây là quyền, là trách nhiệm của cơ quan kiểm sát; hoạt động này hướng đến mục đích nhằm khắc phục những vi phạm của bản án, quyết định sơ thẩm, đảm báo tính có căn cứ và hợp pháp của bản án, quyết định của Tòa án.
Để nâng cao vị trí, vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong việc kháng nghị cần nắm vững về thẩm quyền, thời hạn, trình tự và đặc biệt là các căn cứ kháng nghị phúc thẩm. Theo quy chế công tác thực hành quyền công tố và xét xử các vụ án hình sự (ban hành kèm theo Quyết định 960/QĐ-VKSNDTC ngày 17/9/2007 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao) đã xác định các căn cứ để kháng nghị phúc thẩm tại Điều 33 như sau:
- Việc điều tra, xét hỏi tại phiên tòa phiến diện hoạt không đầy đủ.
- Kết luận của bản án hoặc quyết định hình sự sơ thẩm không phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án.
- Có vi phạm trong việc áp dụng BLHS.
- Thành phần HĐXX sơ thẩm không đúng luật định hoặc có vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng.
Có thể nói, đây là những quy định “cứng” của Viện kiểm sát tối cao để Viện kiểm sát các cấp nhận thức, quyết định có kháng nghị hay không. Tuy nhiên, hiện Bộ luật tố tụng hình sự chưa có các qui định chi tiết về các căn cứ kháng nghị phúc thẩm, các căn cứ theo Điều 33 Quy chế nói trên cũng chỉ là của riêng ngành kiểm sát nên trong thực tế xét xử; các hướng dẫn của Tòa án tối cao và Viện kiểm sát tối cao chưa có sự thống nhất để nhận thức bản án đã vi phạm như thế nào, mức độ nào, Viện kiểm sát thấy đủ các căn cứ kháng nghị nhưng Tòa án thấy không đủ nên bác kháng nghị… Và các tiêu chí này vẫn cần được nghiên cứu, thảo luận thống nhất để áp dụng trong thời gian tới.
Trong hoạt động thực tế của Phòng Thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử án hình sự (Phòng 7), có thể đưa ra các ví dụ sau chứng minh:
Tài liệu tập huấn của Tòa án tối cao hướng dẫn áp dụng tình tiết giảm nhẹ tại điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS “người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” cho rằng: ăn năn hối cải là thái độ của người phạm tội đối với hậu quả do mình gây ra như cắn rứt lương tâm nên đã tự nguyện đền bù thiệt hai, xin lỗi người bị hại… Tuy nhiên, ăn năn hối cải không thể cân, đo, đong đếm được nên phụ thuộc vào nhận định của thẩm phán. Tại sao chỉ có nhận định của thẩm phán mà không có hội thẩm? Thẩm phán này có nhận định giống như thẩm phán khác?, Viện kiểm sát có cùng quan đỉểm về nhận định đó?... đã dẫn đến tình trạng áp dụng “tùy thích” trong việc xét xử; như vậy sẽ dẫn đến pháp luật không được áp dụng nghiêm chỉnh và thống nhất; pháp chế XHCN sẽ không nghiêm. Hoặc đối với các tội phạm mà khách thể bị xâm hại không phải là tài sản, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của người bị hại, cụ thể như tội mua bán trái phép chất ma túy, tội chứa mại dâm… thì nhận định về tình tiết này như thế nào, đều là “tùy nghi”. (Tòa án N. xử xử bị cáo Phạm Thị Bích Đ. Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 254; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46, Điều 47 xử phạt bị cáo 02 năm tù. Bị cáo kháng cáo xin hưởng án treo nhưng Tòa án tỉnh tuyên y án trong khi Viện kiểm sát cấp phúc thẩm đề nghị hủy án xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm , hướng không áp dụng Điều 47 BLHS đối với bị cáo Đ). Hoặc vụ Phạm Thị Kim P. bị xét xử theo điểm b khoản 2 Điều 194 BLHS, Tòa án N. áp dụng thêm điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 47 BLHS xử phạt bị cáo 04 năm tù. Trong vụ án này, bị cáo tự nguyện nộp lại 5.100.000 đồng tiền bán ma túy. Như vậy có thể xem là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b khoản 1 Điều 46 BLHS không?, có xem bị cáo ăn năn, hối cải không và mức nộp do thu lợi bất chính bao nhiêu thì xem là ăn năn, hối cải?
Vụ án Huỳnh Văn N. và Nguyễn Hồng P. tòa áp dụng khoản 1 Điều 140 BLHS, trong quá trình xét xử, Tòa án K. không áp dụng điểm g khoản 1 Điều 48 “phạm tội nhiều lần” đối với bị cáo P nhưng lại áp dụng điểm h khoản 1 Điều 46 đối với 02 bị cáo ( trong khi cả 2 bị cáo đều phạm tội nhiều lần) để xử tù treo 02 bị cáo là vi phạm nghiêm trọng việc áp dụng pháp luật hình sự.
Vụ án Trần N.D., Nguyễn Đ. B. bị truy tố theo điểm d khoản 2 Điều 136 BLHS, Tòa án N. áp dụng khoản 2 điều 136; điểm g, h khoản 1 Điều 46; Điều 47; Điều 60 BLHS xử tù treo đối với 02 bị cáo cũng vi phạm nghiêm trọng việc áp dụng pháp luật hình sự. Hai bị cáo đã phạm tội gây thiệt hại thuộc trường hợp rất nghiêm trọng nhưng vẫn áp dụng tình tiết chưa gây thiệt hại hoặc thiệt hại không lớn (khách thể bị xâm hại còn là an ninh trật tự, an toàn xã hội chứ không riêng ghì tài sản đã bị chiếm đoạt) và phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng (trong khi 02 bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng). Các bị cáo được áp dụng Điều 47 BLHS nhưng lại bị tuyên 03 năm tù cho hưởng án treo. Có thể nói việc áp dụng luật như các trường hợp trên là không thống nhất, tùy tiện.
Nhiều vụ án, bị cáo phạm tội chưa gây thiệt hại hoặc thiệt hại không lớn(thậm chí chỉ hơn 500.000 đồng); phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nhưng Tòa án không áp dụng Điều 47 BLHS để xử dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn cũng bởi luật quy định “Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt…” và “lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án”. Vì “có thể” nên lúc áp dụng, lúc không áp dụng gây bất lợi cho bị cáo; trái với nguyên tắc có lợi đối với bị cáo khi tham gia tố tụng hình sự. Đơn cử vụ Mấu L. ở huyện K., vụ Nguyễn Thành Q. ở huyện V…
Để nâng cao vị trí, vai trò, quyền hạn và trách nhiệm của mình, trong công tác kháng nghị phúc thẩm, Viện kiểm sát tỉnh, huyện, thành phố cần bám sát các căn cứ kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Quy chế xét xử hình sự). Bên cạnh đó cần nắm vững các quy định của pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự; các Nghị quyết, Thông tư hướng dẫn của ngành, liên ngành Trung ương để kịp thời phát hiện những thiếu sót, sai phạm trong việc áp dụng luật của Tòa án.
Mặt khác cần chú trọng công tác kiểm sát bản án; đặc biệt quan tâm đến thời hạn gửi bản án của Tòa án, gắn chỉ tiêu thi đua khen thưởng đối với Kiểm sát viên thực hiện kiểm sát bản án đúng, phát hiện được sai phạm có kháng nghị hiệu quả; Kiểm điểm rút kinh nghiệm đối với Kiểm sát viên kiểm sát bản án hời hợt, dẫn đến án bị hủy, sửa do lỗi chủ quan của Kiểm sát viên.
Kiên quyết kháng nghị đối với các vi phạm như áp dụng luật không đúng, áp dụng tùy tiện, thiếu căn cứ, mang tính chủ quan cá nhân của Kiểm sát viên, Thẩm phán; kể cả thực hiện báo cáo giám đốc thẩm đề nghị xem xét kháng nghị đối với các bản án đã bị VKS kháng nghị phúc thẩm có căn cứ nhưng Tòa phúc thẩm bác kháng nghị.
N.N.T