Trang thông tin tổng hợp Viện Kiểm Sát Khánh Hòa

tiếp tục bảo đảm an ninh, an toàn thực phẩm trong tình hình mới

Các giải pháp nhằm thực hiện hiệu quả nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử Hình sự theo quy định mới của Luật tổ chức VKSND 2014, luật HS và TTHS năm 2015

Thực hiện Chỉ thị 01/CT-VKSTC ngày 28/12/2016 của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao về công tác Kiểm sát Ngành KSND năm 2017; Kế hoạch công tác số 06 ngày 04/01/2017 của ngành Kiểm sát Khánh Hòa, Công văn hướng dẫn số 08/HD-VKSTC-V7 ngày 07/1/2016 của Vụ 7- VKSND Tối Cao hướng dẫn công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự, công văn số 836/VKSTC-V7 ngày 14/3/2016 hướng dẫn thực hiện chuyên đề; Phòng 7 - VKSND tỉnh Khánh Hòa xây dựng các chuyên đề sau:

“ Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên tại các phiên tòa hình sự”.

“ Một số giải pháp trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự nhằm hạn chế oan, sai”.

“ Những qui định mới của Pháp luật và những vấn đề cần lưu ý nhằm bảo đảm thực hiện tốt công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử án hình sự”.

Năm 2017 là năm toàn ngành quán triệt, triển khai thực hiện mục tiêu: “Tiếp tục triển khai thực hiện nghiêm túc, kịp thời các đạo luật mới về tư pháp, những qui định về nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND; tăng cường trách nhiệm công tố và kiểm sát hoath động tư pháp, bảo đảm không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội; nâng cao hiệu quả công tác điều tra của cơ quan điều tra VKS; xây dựng  ngành KS trong sạch, vững mạnh toàn diện, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay ” và phương châm: “Đoàn kết, đổi mới- Trách nhiệm, kỷ cương- Chất lượng, hiệu quả ” nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng công tác của ngành Kiểm sát nhân dân.

Thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự là các chế định được quy định trong Bộ luật Tố tụng Hình sự Việt Nam nhằm đảm bảo cho các quy trình tiến hành tố tụng một vụ án hình sự tuân thủ nghiêm chỉnh các nguyên tắc cơ bản của Bộ luật TTHS. Trong hệ thống các nguyên tắc cơ bản đó, ngoài việc đảm bảo sự thể hiện quyền lực của Nhà nước, bảo vệ Hiến Pháp và Pháp luật thì điều xuyên suốt hệ thống các nguyên tắc là bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Như vậy, các chế định trên đều có mục đích là bảo đảm quyền lực Nhà Nước và quyền con người. Đây cũng là điểm mới trong Luật TCVKSND, khẳng định rõ nét hơn vị trí, vai trò của VKSND là thiết chế Hiến định trong bộ máy Nhà nước; làm rõ nội dung các khâu công tác và bổ sung quy định về các công tác phục vụ thực hiện chức năng của ngành KSND, trong đó có THQCT và KSXX án hình sự.

Trong phạm vi công tác của mình, Phòng 7-VKS Khánh Hòa đề cập đến việc THQCT và KSXX ở giai đoạn sơ thẩm và phúc thẩm. Cũng bởi các chuyên đề nói trên có những vấn đề chung, liên quan chặt chẽ, gắn kết với nhau giữa nâng cao chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên tại các phiên tòa hình sự, giải pháp trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự nhằm hạn chế oan, sai và những vấn đề cần lưu ý nhằm bảo đảm thực hiện tốt công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử án hình sự theo những qui định mới hiện nay nên phòng 7 VKS Khánh Hòa sẽ trình bày các chuyên đề với các qui định chung và theo các chuyên đề riêng dưới đây.

CHƯƠNG I: LÝ LUẬN - NHẬN THỨC CHUNG VỀ CÔNG TÁC THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT XÉT XỬ ÁN HÌNH SỰ

                   Điều 2 Luật TCVKSND 2014 qui định về chức năng, nhiệm vụ của VKSND như sau:

                   1.VKSND là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng Hòa XHCN Việt Nam.

                   2. VKSND có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và Pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.

1.Khái niệm thực hành quyền công tố

Quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện việc buộc tội, hay nói cách khác là quyền nhân danh quyền lực công thực hiện việc truy tố ra trước Tòa án đối với người phạm tội. Quyền này là quyền của Nhà nước, Nhà nước giao cho một cơ quan thực hiện (ở Việt Nam là cơ quan Viện kiểm sát). Để làm được điều này,  cơ quan công tố phải có trách nhiệm tham gia ngay từ khi xảy ra vụ án hình sự, đảm bảo việc thu thập đầy đủ, đúng trình tự  tài liệu, chứng cứ nhằm xác định tội phạm và người phạm tội. Trên cơ sở đó quyết định việc truy tố bị can ra trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên tòa. Do quyền công tố là quyền truy tố nhân danh công quyền đối với người phạm tội nên đối tượng của quyền công tố, nội dung của quyền công tố là sự buộc tội đối với người thực hiện hành vi phạm tội.

Với quan niệm quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện việc truy tố ra trước Tòa án đối với kẻ phạm tội, phạm vi của quyền này bắt đầu từ khi có tội phạm xảy ra và kết thúc khi bản án đã có hiệu lực pháp luật, không bị  kháng nghị. Để đảm bảo thực hiện quyền công tố trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, Nhà nước đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, trong đó quy định các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố. Các quyền năng pháp lý đó được Nhà nước giao cho cơ quan nhà nước nào thực hiện để phát hiện tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội thì cơ quan đó có trách nhiệm thực hành quyền công tố.

Vậy, thực hành quyền công tố là việc sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để thực hiện việc truy tố ra trước Tòa án  đối với người phạm tội trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử. Trong đó, công tác thực hành quyền công tố trong hoạt động xét xử được thể hiện cụ thể tại các Điều 18 và 19 của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 và một số quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Phạm vi thực hành quyền công tố bắt đầu từ khi khởi tố vụ án hình sự và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật. Công tác THQCT và KSXXHS bắt đầu từ khi chuyển bản cáo trạng hoặc quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn cùng hồ sơ vụ án sang tòa án để xét xử và kết thúc khi bản án và quyết định của tòa án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng cáo, kháng nghị.

Nội dung của hoạt động thực hành quyền công tố là việc sử dụng tất cả những quyền năng tố tụng nhằm bảo đảm phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh mọi hành vi phạm tội, không để lọt người, lọt tội; không làm oan người vô tội trong các giai đoạn xét xử.

2.Khái niệm kiểm sát hoạt động tư pháp

Kiểm sát hoạt động tư pháp là chức năng hiến định của Viện kiểm sát (Điều 107 Hiến pháp 2013). Kiểm sát các hoạt động tư pháp là một dạng giám sát Nhà nước về tư pháp, đây là hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước. Tuy nhiên, khác với hoạt động giám sát Nhà nước nói chung về tư pháp, kiểm sát các hoạt động tư pháp là sự giám sát trực tiếp các hoạt động cụ thể của các cơ quan tư pháp và các cơ quan được giao một số thẩm quyền tư pháp trong quá trình tố tụng. Mục đích của kiểm sát các hoạt động tư pháp hình sự là nhằm bảo đảm cho pháp luật được áp dụng nghiêm chỉnh và thống nhất trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Trong các giai đoạn của tố tụng hình sự, Viện kiểm sát có trách nhiệm áp dụng những biện pháp do BLTTHS quy định để loại trừ việc vi phạm pháp luật của bất kỳ cơ quan tư pháp hoặc cán bộ tư pháp nào. Theo quy định của pháp luật hiện hành, hoạt động kiểm sát các hoạt động tư pháp hình sự chỉ do duy nhất một chủ thể tiến hành, đó là cơ quan Viện kiểm sát. Hoạt động này được thực hiện bởi các kiểm sát viên là người tiến hành tố tụng trong tố tụng hình sự, trên cơ sở các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát được ghi nhận trong Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và Bộ luật tố tụng hình sự. Kiểm sát các hoạt động tư pháp hình sự là hoạt động thực hiện quyền lực Nhà nước, do Quốc hội giao cho Viện kiểm sát nhân dân nhằm đảm bảo pháp chế trong hoạt động tư pháp hình sự.

Vậy, kiểm sát các hoạt động tư pháp hình sự là chức năng Hiến định của Viện kiểm sát, có nội dung là giám sát mọi hoạt động của các cơ quan tư pháp và các cơ quan được giao nhiệm vụ thực hiện một số hoạt động tư pháp trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, nhằm đảm bảo cho pháp luật tố tụng hình sự được thực hiện một cách nghiêm chỉnh, thống nhất.

3.Vị trí, vai trò của VKS trong công tác THQCT và KSXX các vụ án hình sự theo quy định của Luật tổ chức VKS

THQCT và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp là chức năng Hiến định của Ngành kiểm sát nhân dân. Điều 107 Hiến pháp năm 2013 và Điều 2 Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định: VKSND thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước CHXH CNVN. Trong phạm vi chức năng của mình VKSND có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.

Điều 20 Bộ luật TTHS qui định về trách nhiệm thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự :“ Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, quyết định việc buộc tội, phát hiện vi phạm pháp luật nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội, người phạm tội, pháp nhân phạm tội, vi phạm pháp luật đều phải được phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh, việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, pháp nhân phạm tội, không làm oan người vô tội”.

Vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của VKS trong THQCT và KSXX các vụ án hình sự được quy định tại Chương II, mục 4 Điều 18, 19 Luật tổ chức VKSND năm 2014:

Điều 18. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự

1. Công bố cáo trạng hoặc quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn, quyết định khác về việc buộc tội đối với bị cáo tại phiên tòa.

2. Xét hỏi, luận tội, tranh luận, phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa.

3. Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án trong trường hợp phát hiện oan, sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội.

4. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong việc buộc tội theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Điều 19. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi kiểm sát xét xử vụ án hình sự

1. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử các vụ án hình sự của Tòa án.

2. Kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án.

3. Kiểm sát hoạt động tố tụng hình sự của người tham gia tố tụng; yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý nghiêm minh người tham gia tố tụng vi phạm pháp luật

4. Yêu cầu Tòa án cùng cấp, cấp dưới chuyển hồ sơ vụ án hình sự để xem xét, quyết định việc kháng nghị.

5. Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng.

6. Thực hiện quyền yêu cầu, kiến nghị và nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát xét xử vụ án hình sự theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.”

Từ nội dung các quy định pháp luật nêu trên, đã khẳng đinh: vị trí, vai trò của VKS trong công tác THQCT và KSXX các vụ án hình sự là thực sự cần thiết và rất quan trọng, THQCT và KS các hoạt động tư pháp là một dạng thực hiện quyền lực Nhà nước trong lĩnh vực tư pháp; không một cơ quan, tổ chức nào có thể thay thế VKS trong việc truy tố người phạm tội ra tòa. VKSND là cơ quan duy nhất truy tố người phạm tội ra xét xử trước Tòa án và thực hiện việc buộc tội tại phiên tòa. Việc xét xử có đúng người, đúng tội, đúng pháp luật hay không phụ thuộc vào công tác THQCT của VKSND. Bên cạnh đó, VKSND còn thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án, của Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng để khịp thời phát hiện vi phạm trong hoạt động xét xử tại phiên tòa, có kiến nghị, kháng nghị khắc phục sửa chữa.

4.Nhiệm vụ, quyền hạn của kiểm sát viên trong công tác THQCT và KSXX các vụ án hình sự.

Tại phiên tòa xét xử các vụ án hình sự, KSV tham gia với tư cách là người đại diện VKSND thay mặt Nhà nước để  thực hành quyền công tố nhằm buộc tội bị cáo. Theo quy định tại Điều 266 Bộ luật TTHS qui định về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử;

1. Khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, Viện kiểm sát có nhiệm vụ, quyền hạn:

a) Công bố cáo trạng, công bố quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn, quyết định khác về việc buộc tội đối với bị cáo tại phiên tòa;

b) Xét hỏi, xem xét vật chứng, xem xét tại chỗ;

c) Luận tội, tranh luận, rút một phần hoặc toàn bộ quyết định truy tố; kết luận về tội khác bằng hoặc nhẹ hơn; phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa;

d) Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án trong trường hợp oan, sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội;

đ) Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm theo quy định của Bộ luật này.

2. Khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử phúc thẩm, Viện kiểm sát có nhiệm vụ, quyền hạn:

a) Trình bày ý kiến về nội dung kháng cáo, kháng nghị;

b) Bổ sung chứng cứ mới;

c) Bổ sung, thay đổi kháng nghị; rút một phần hoặc toàn bộ kháng nghị;

d) Xét hỏi, xem xét vật chứng, xem xét tại chỗ;

đ) Phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa, phiên họp;

e) Tranh luận với bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa;

g) Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử phúc thẩm theo quy định của Bộ luật này.

Và Điều 267 qui định về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi kiểm sát xét xử;

1. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử vụ án hình sự của Tòa án.

2. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của người tham gia tố tụng; yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý nghiêm minh người tham gia tố tụng vi phạm pháp luật.

3. Kiểm sát bản án, quyết định, văn bản tố tụng khác của Tòa án.

4. Yêu cầu Tòa án cùng cấp, cấp dưới chuyển hồ sơ vụ án hình sự để xem xét, quyết định việc kháng nghị.

5. Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm pháp luật nghiêm trọng về thủ tục tố tụng.

6. Kiến nghị, yêu cầu Tòa án, cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật này; kiến nghị Tòa án khắc phục vi phạm trong hoạt động tố tụng.

7. Kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật trong hoạt động quản lý.

8. Thực hiện quyền yêu cầu, kiến nghị, nhiệm vụ, quyền hạn khác khi kiểm sát xét xử vụ án hình sự theo quy định của Bộ luật này.

Như vậy, khi thực hiện kiểm sát xét xử các vụ án hình sự, VKS và KSV được giao nhiệm vụ rất rõ ràng, cụ thể và toàn diện. Vụ án có được khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, nghiêm minh, kịp thời hay không phụ thuộc rất lớn vào năng lực và trách nhiệm của KSV.

CHƯƠNG II: CÔNG TÁC THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ

VÀ KIỂM SÁT XÉT XỬ ÁN HÌNH SỰ

 

          Đánh giá các quy định mới của Luật tổ chức Viện kiểm sát 2014

Viện Kiểm sát nhân dân là một thiết chế Hiến định trong bộ máy Nhà nước. Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 đã góp phần đặt nền móng, hoàn thiện hệ thống lý luận về chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân, đảm bảo thống nhất trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho việc xây dựng các đạo luật liên quan đến tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân như Luật tổ chức Cơ quan điều tra hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật hình sự và các Bộ luật khác.

Trên cơ sở nội dung của chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 đã quy định rõ các lĩnh vực công tác thuộc chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp; làm rõ nội dung các khâu công tác thực hiện chức năng và bổ sung quy định về các công tác phục vụ thực hiện chức năng của Viện kiểm sát nhân dân (Chương II); đã phân định các trường hợp VKSND thực hiện quyền kháng nghị hoặc quyền kiến nghị; đồng thời, quy định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc giải quyết, trả lời kháng nghị, kiến nghị của Viện kiểm sát nhân dân, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả khi Viện kiểm sát nhân dân thực hiện các quyền này trên thực tế (Điều 5).Ngoài ra Luật còn qui định mới về mở rộng thẩm quyền của cơ quan điều tra VKSND, thêm một cấp kiểm sát mới và cơ chế kiểm soát, giám sát đối với VKSND.

  1. Vị trí, vai trò, trách nhiệm của Viện kiểm sát trong giai đoạn kiểm sát xét xử HS

Trên cơ sở quy định của Hiến pháp và Luật tổ chức Viện kiểm sát 2014, các đạo luật về tố tụng đã thể hiện rõ vị trí, vai trò, nhiệm vụ của VKSND trong  quá trình giải quyết các vụ án hình sự.Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Viện kiểm sát nhân dân có chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự; bao gồm hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm của Cơ quan điều tra, việc khởi tố, điều tra, xét xử vụ án hình sự (bao gồm giai đoạn xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm); việc thi hành bản án và quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự, Viện kiểm sát được xác định là một trong các cơ quan tiến hành tố tụng, có trách nhiệm chứng minh tội phạm; đồng thời kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan và người tiến hành tố tụng. Khi thực hành quyền công tố, thực hiện trách nhiệm chứng minh trong giai đoạn xét xử, Viện kiểm sát có trách nhiệm bảo vệ quan điểm truy tố (thể hiện trong cáo trạng). Quá trình bảo vệ quan điểm truy tố được tiến hành trên hai phương diện: nghiên cứu, tìm luận cứ, luận chứng để bảo vệ quan điểm truy tố và xem xét, làm rõ chứng cứ “gỡ tội”, bao gồm chứng cứ xác định vô tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Về nguyên tắc thì hai phương diện nói trên được tiến hành đồng thời; về logic thì trước hết Viện kiểm sát phải bảo vệ quan điểm truy tố. Quan điểm truy tố chỉ thực sự khách quan, đúng pháp luật, có lý, có tình khi được xem xét, đánh giá toàn diện các yếu tố buộc tội một cách đầy đủ. Do vậy, khi bảo vệ quan điểm truy tố, Viện kiểm sát phải xem xét toàn diện, thấu đáo tất cả các khía cạnh pháp lý của vụ án.

Khi kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, Viện kiểm sát có trách nhiệm giám sát, phát hiện vi phạm trong việc tuân theo pháp luật của những người tiến hành tố tụng; áp dụng các quyền hạn do pháp luật tố tụng hình sự quy định để khắc phục vi phạm; bảo đảm cho từng giai đoạn xét xử được khách quan, có căn cứ đúng pháp luật; đúng người, đúng tội. Mặt khác, về nguyên tắc, khi kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử, Viện kiểm sát không chỉ kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tiến hành tố tụng mà còn có trách nhiệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tiến hành tố tụng của giai đoạn tố tụng trước đó. Hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tiến hành tố tụng trong giai đoạn trước khi xét xử chủ yếu thực hiện thông qua việc kiểm sát hồ sơ vụ án. Cụ thể như khi kiểm sát hồ sơ vụ án sau khi đã có quyết định truy tố của Viện kiểm sát, Kiểm sát viên có trách nhiệm kiểm sát trong quá trình điều tra vụ án có vi phạm pháp luật hay không. Tuy nhiên, trong thực tiễn hiện nay, Viện kiểm sát đang áp dụng mô hình “thông khâu” nên Kiểm sát viên được phân công kiểm sát điều tra đồng thời là người thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử tại phiên tòa. Sau khi xét xử sơ thẩm, vụ án có thể được đưa ra xét xử phúc thẩm nếu có kháng cáo, kháng nghị thì mới được giao cho Kiểm sát viên khác của cấp trên trực tiếp kiểm sát xét xử lại vụ án hoặc kiểm sát lại quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết định sơ thẩm đối với vụ án chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị (Điều 330 BLTTHS).

Theo những quy định trên, Viện kiểm sát có vai trò quan trọng trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự. Sự tham gia của Viện kiểm sát trong giai đoạn này là sự      bảo đảm cho việc xét xử của Tòa án có căn cứ, khách quan, đúng pháp luật. Như vậy, Viện kiểm sát tham gia trong giai đoạn xét xử sơ thẩm là để góp phần bảo đảm bản án, quyết định của Tòa án có căn cứ khách quan, hợp pháp. Chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát thể hiện trong giai đoạn xét xử sơ thẩm thể hiện sự giám sát lẫn nhau giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền tư pháp.

  1.  Nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong giai đoạn kiểm sát xét xử HS

 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 và 2014 đều quy định về công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử án hình sự. Theo đó, trong  giai đoạn xét xử các vụ án hình sự, VKSND có trách nhiệm thực hành quyền  công tố, bảo đảm việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội; kiểm sát việc xét xử các vụ án hình sự, nhằm đảm bảo việc xét xử đúng pháp luật, nghiêm minh, kịp thời.

Trong khi Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 dành 04 Điều để quy định về công tác này (Điều 16, 17, 18, 19), thì Luật tổ chức Viện  kiểm sát nhân dân năm 2014 chỉ quy định trong 02 Điều (Điều 18, 19). Mặc dù vậy, quy định về công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử án hình sự của Luật tổ chức VKSND năm 2014 đã thể hiện đầy đủ và cụ thể hơn. Đồng thời, có bổ sung những quyền hạn của VKS được quy định tại BLTTHS như việc xét hỏi, quyền yêu cầu, việc kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án trong trường hợp phát hiện oan sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội hoặc có vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng…( Còn nữa).

 

Phòng 7 - VKSND tỉnh Khánh Hòa

Liên kết website

Thông kê truy cập