Hoạt động xét xử tại phiên tòa là một hoạt động tố tụng quan trọng trong công tác kiểm sát giải quyết án hình sự, trong đó vai trò tranh tụng của Kiểm sát viên là yếu tố quyết định. Kết quả tranh tụng không chỉ là sự đánh giá hiệu quả hoạt động tố tụng của các giai đoạn điều tra, truy tố, mà đây còn yêu cầu cấp thiết trong việc đảm bảo tính công bằng dân chủ giữa người tham gia tố tụng với vai trò thực hành quyền công tố Nhà nước của Viện Kiểm sát, là căn cứ để xác định sự thật vụ án và là cơ sở để Hội đồng xét xử ra bản án chính xác, khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Xác định vai trò quan trọng của hoạt động tranh tụng tại phiên tòa, tại các Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp như Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 01/01/2002, Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005, Kết luận 79-KL/TW ngày 28/7/2010… đều xác định tranh tụng trong xét xử là một trong những nội dung trọng tâm và là khâu đột phá của tiến trình cải cách tư pháp.
Tranh tụng tại phiên tòa có vai trò hết sức quan trọng, nó không chỉ là sự đánh giá kết quả hoạt động của các giai đoạn điều tra, truy tố mà còn có tác dụng to lớn đối với chính giai đoạn xét xử. Đây chính là cơ chế tối ưu nhất để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bị cáo, đảm bảo việc truy tố, xét xử là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Ngay sau khi Nghị quyết số 08/NQ-TW được quán triệt, hầu hết các vụ án đã được đưa ra xét xử với sự đổi mới thủ tục xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở những quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự mới và theo tinh thần cải cách tư pháp của Bộ Chính trị. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã thể hiện được tính khách quan, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của cả kiểm sát viên, luật sư, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác. Phiên tòa đã thể hiện được tính dân chủ, bình đẳng giữa những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng trong việc đưa ra chứng cứ, bày tỏ quan điểm khác nhau, cùng tranh luận xác định sự thật khách quan. Cùng với việc xét hỏi, Hội đồng xét xử còn chấp nhận luật sư, bị cáo và những người tham gia tố tụng xuất trình chứng cứ mới. Hội đồng xét xử xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ có trong hồ sơ, chứng cứ đã được kiểm sát viên phân tích, đánh giá khi luận tội bảo vệ cáo trạng, phát biểu tại phiên tòa, quan điểm của kiểm sát viên, của người bào chữa và những người tham gia tố tụng để ra phán quyết cuối cùng.
Trên tinh thần cải cách tư pháp, xem tranh tụng là trọng tâm của phiên tòa xét xử hình sự, KSV đã nhận thức và có nhiều nỗ lực trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Bên cạnh những phiên tòa xét xử đúng với tinh thần tranh tụng còn có những phiên toà, nhiều KSV khi tham gia phiên tòa chưa nắm vững các qui định của Luật, các văn bản dưới luật liên quan. Không nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án; từ hình thức, trình tự, thẩm quyền… trong tố tụng đến việc tổng hợp, đánh giá các mâu thuẫn, chứng cứ buộc tội hoặc gỡ tội, các vấn đề liên quan đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự, các chế định đối với người chưa đủ 18 tuổi, vấn đề đồng phạm, xóa án, xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ…nên việc chuẩn bị đề cương xét hỏi sơ sài, chuẩn bị nội dung tranh luận hời hợt và mang tính chủ quan bởi nghĩ rằng vụ án đơn giản đã được kết luận điều tra mà các bị cáo không có ý kiến gì (Thực tế có nhiều sai sót trong việc đề nghị HĐXX áp dụng qui định của Luật như áp dụng thiếu, thừa, không chính xác các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ). Có KSV khi được chủ tọa yêu cầu thẩm vấn đã không hỏi gì thêm, để mặc HĐXX chủ động làm việc trong khi còn nhiều tình tiết của vụ án chưa được làm rõ. Việc tranh luận với luật sư và bị cáo chưa có sức thuyết phục, thiếu luận cứ, thậm chí còn né tránh, ngại tranh luận nên không phản bác được quan điểm không có căn cứ của Luật sư, bị cáo dẫn đến không được Hội đồng xét xử chấp nhận. Có KSV không biết cách trình bày vấn đề một cách khoa học, lúng túng trong cách lập luận, sử dụng từ ngữ và thuật ngữ pháp lý không chuẩn xác, dẫn tới hiệu quả tranh luận không cao. Phong cách, thái độ của một số KSV khi tranh luận còn tỏ ra lo lắng, thiếu bình tĩnh, dẫn đến hạn chế khả năng tranh luận. Ở một số vụ án xét xử lưu động, việc tuyên truyền, giáo dục chính sách, pháp luật, đạo đức xã hội của KSV tại phiên tòa còn hạn chế; chưa lồng ghép được nguyên nhân, điều kiện phạm tội để giáo dục, phòng ngừa hoặc phân tích, đánh giá tính chất mức độ của vụ án không sát với thực tế; phân tích mức độ rất nghiêm trọng nhưng lại đề nghị mức án nhẹ, hoặc đánh giá bị cáo cần cách ly ra khỏi xã hội mới đủ tác dụng giáo dục nhưng lại đề nghị tòa xử tù nhưng cho hưởng án treo; nghiêm trọng hơn, có vụ án dường như áp dụng “nhầm” các tình tiết giảm nhẹ và “ quên” các tình tiết tăng nặng để xử nhẹ cho bị cáo gây ảnh hưởng tiêu cực đến việc tuyên truyền, giáo dục PL cũng như đảm bảo cho pháp luật được thực thi nghiêm chỉnh và thống nhất. Hoặc như, việc bị cáo và đại diện hợp pháp cho bị cáo có mặt tại phiên tòa là những quy định bắt buộc của pháp luật tố tụng hình sự, đó không chỉ là tuân thủ quy định tố tụng mà còn đảm bảo cho bị cáo được bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình qua quá trình tranh tụng. Nhưng trên thực tế vẫn còn có những vụ án khi xét xử vắng mặt bị cáo nhưng không có lệnh truy nã và kết quả truy nã; xét xử bị cáo chưa thành niên mà không có người đại diện hợp pháp của bị cáo hoặc nhà trường, cán bộ Đoàn tham gia; xét xử vắng mặt những người tham gia tố tụng khác - những người mà pháp luật cho phép tham gia vào quá trình tranh tụng để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình. Có trường hợp, VKS gởi giấy triệu tập bị cáo sau 01 ngày đến nhận cáo trạng, ngày hôm sau bị cáo không đến nên KSV tiến hành xác minh tại địa phương; kết quả xác minh là bị cáo đi biển thì VKS lại yêu cầu cơ quan điều tra ra quyết định truy nã, gây bất lợi cho bị cáo.
Hồ sơ, chứng cứ được xác lập trong giai đoạn điều tra là rất quan trọng cho việc xét xử tại phiên toà. Tuy nhiên, các chứng cứ có trong hồ sơ là do các cơ quan tiến hành tố tụng thu thập, nhiều trường hợp chưa thể đầy đủ và không loại trừ việc thiếu khách quan. Đặc biệt đối với những vụ án hình sự, trách nhiệm chứng minh thuộc về các cơ quan tố tụng, cho nên đa số các trường hợp Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát chỉ thu thập chứng cứ buộc tội, không chú trọng thu thập chứng cứ gỡ tội, trong khi đó bên bào chữa thu thập, cung cấp chứng cứ còn khó khăn làm hạn chế khả năng tranh tụng của họ tại phiên toà.
Luật đã quy định người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hoặc người đại diện hợp pháp của họ được quyền trình bày ý kiến để bảo vệ quyền và lợi ích của mình, nếu những người này có luật sư bảo vệ quyền lợi thì luật sư trình bày trước, những người đó bổ sung sau. Tuy nhiên trên thực tế, nhiều vụ án do hạn chế về thời gian mà thủ tục này bị vi phạm, đương sự không được trình bày hoặc trình bày không hết ý kiến của mình. Thậm chí có trường hợp họ cũng không được xét hỏi ở giai đoạn trước đó. Đây là những vi phạm thủ tục tố tụng nghiêm trọng và vi phạm tinh thần của tranh tụng tại phiên tòa.
Thực tiễn xét xử hiện nay còn tồn tại thiếu sót của thẩm phán - chủ tọa phiên tòa là khi xét hỏi bị cáo thường thẩm vấn theo hướng buộc tội như cáo trạng của Viện kiểm sát, giúp Viện kiểm sát bảo vệ cáo trạng.
Trong phiên tòa, luật sư là một bên của quá trình tranh tụng nhưng nhiều trường hợp, bài bào chữa chỉ mang nặng việc khai thác các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ hoặc bắt bẻ về câu chữ, hay những lỗi tố tụng nhỏ mà không đi vào những tình tiết của vụ án một cách toàn diện, để khai thác bảo vệ quyền lợi chính đáng của bị cáo, nhất là các vụ án Luật sư được chỉ định bảo về quyền lợi cho bị cáo chưa thành niên.
Nguyên nhân của những hạn chế trong tranh tụng tại phiên tòa hình sự
Quy định pháp luật chưa đầy đủ, chưa phù hợp
Mặc dù pháp luật TTHS hiện hành của chúng ta đã có những quy định khá tiến bộ về tranh tụng tại phiên toà, như: quy định về bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo tại phiên toà; quy định về nguyên tắc bình đẳng giữa kiểm sát viên với người bào chữa, bị cáo trong việc đưa ra chứng cứ, đưa ra yêu cầu và tranh luận trước Toà án, nhằm bảo đảm tính khách quan của hoạt động xét xử… Bộ luật Tố tụng hình sự cũng quy định khi xét hỏi và tranh luận, chủ toạ phiên toà không hạn chế thời gian để xét hỏi cũng như để tranh luận... Những quy định này tạo điều kiện cho những người tham gia tố tụng có điều kiện về thời gian để tranh luận bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Tuy nhiên, Mục V- Chương XXI Bộ luật TTHS qui định về thủ tục tranh tụng tại phiên chưa quy định tranh tụng là một nguyên tắc của hoạt động xét xử, vì vậy, trong từng điều luật tại các chương về xét xử cũng chưa thể hiện hết toàn bộ tinh thần của tranh tụng và như thế việc đảm bảo cho tranh tụng tại phiên tòa chưa đạt hiệu quả cao nhất.
Bảo đảm sự bình đẳng giữa các chủ thể tham gia tranh tụng là một điều kiện cơ bản của hoạt động tranh tụng tại phiên tòa. Nó là cơ sở để xác định tư cách tố tụng của người bào chữa, bị cáo không chỉ là một chủ thể mà còn là một bên tham gia tranh tụng bình đẳng với bên buộc tội. Tuy nhiên, việc thể hiện nội dung này tại các điều luật cụ thể vẫn chưa được quy định tại Bộ luật TTHS năm 2015. Ví dụ: tại các điều 289,290,291.. Bộ luật TTHS quy định, trong mọi trường hợp kiểm sát viên vắng mặt phải hoãn phiên tòa, trong khi đó người bào chữa hoặc bị cáo và các chủ thể khác vắng mặt thì vẫn có thể tiến hành xét xử vụ án. Qui định như vậy là chưa đảm bảo sự bình đẳng giữa các bên trong tranh tụng, sự vắng mặt của luật sư và của bị cáo ở phiên tòa sẽ làm cho quá trình tranh tụng mất đi ý nghĩa của nó, bởi thiếu một bên tham gia và một chức năng quan trọng là bào chữa không được thực hiện.
Đội ngũ thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ
Đội ngũ thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư hiện nay còn nhiều hạn chế, ảnh hưởng đến chất lượng tranh tụng nói chung, chất lượng xét xử vụ án hình sự nói riêng.
Năng lực, trình độ chuyên môn: năng lực của thẩm phán, kiểm sát viên có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng của quá trình tranh tụng tại phiên tòa, được thể hiện ở hai khía cạnh là trình độ chuyên môn nghiệp vụ và kinh nghiệm khi tham gia phiên tòa, đối với thẩm phán là kỹ năng điều khiển phiên tòa và kiểm sát viên là kỹ năng tranh tụng. Trong đó trình độ chuyên môn, nghiệp vụ có ảnh hưởng rất lớn vì chủ yếu các trường hợp án bị sửa, hủy là do việc nắm và vận dụng pháp luật của thẩm phán và kiểm sát viên còn hạn chế. Có trường hợp 03 bị cáo là đồng phạm, cùng thực hiện một hành vi phạm tội nhưng lại bị truy tố, xét xử theo 02 khung hình phạt khác nhau, dẫn đến vụ án bị kháng nghị, sửa án và tăng mức hình phạt.
Trong những năm gần đây, luật sư đã tham gia nhiều vào tranh tụng trong vụ án hình sự. Tuy nhiên ở nhiều vụ án mà có sự tham gia của luật sư thì việc tranh cãi chỉ xoay quanh quan điểm định tội danh hoặc tìm ra những chỗ chưa hoàn chỉnh của công tác điều tra để “bắt bẻ” chứ rất hiếm khi đưa ra được những bằng chứng phản bác đắt giá... chưa kể sự mâu thuẫn, căng thẳng trong khi tranh cãi thay vì phải xuất phát từ sự cọ xát về chứng cứ, luận điểm thì đôi lúc chỉ vì thái độ, ngôn ngữ mang tính hình thức. Nhiều lúc công đoạn tranh luận chỉ là sự công kích giữa hai phía buộc tội và gỡ tội, tuy là có tính tranh luận nhưng nhiều khi lại làm mất đi vẻ uy nghiêm của một phiên tòa. Điều này có một phần nguyên nhân từ năng lực của KSV và luật sư. Thực tế hiện nay, do điều kiện kinh tế, bị cáo và người nhà bị cáo không thể thuê luật sư, cho nên nhiều khi luật sư phải làm thêm các dịch vụ pháp lý khác, chưa kể có người còn có những công việc khác bên cạnh nghề luật sư, nhiều luật sư là cán bộ hưu trí... Những điều này làm cho kinh nghiệm và kỹ năng của luật sư bị dàn trải, hạn chế năng lực chuyên sâu của luật sư.
Đạo đức, ý thức nghề nghiệp: hiện nay còn có một số bộ phận cán bộ tư pháp thoái hóa, biến chất, biết luật để lách luật, thỏa hiệp với bị can để nhận hối lộ,vi phạm pháp luật, làm trái với lương tâm và đạo đức nghề nghiệp. Một số luật sư khi tham gia bào chữa vụ án hình sự không quan tâm đến công việc chuyên môn, tới việc làm rõ các tình tiết của vụ án một cách đầy đủ, toàn diện mà quá coi trọng vật chất, việc làm không trong sáng, chạy tội cho bị can, bị cáo. Thậm chí có những luật sư tìm cách “chạy án” nhằm gỡ tội cho thân chủ. Chính những biểu hiện, việc làm của luật sư đã tự cản trở việc thực hiện quy định người bào chữa tham gia tố tụng kể từ khi khởi tố vụ án và tiếng nói của luật sư bào chữa trong một vài vụ án chưa được người dân đồng tình.
Nguyên nhân khác
Cơ chế đảm bảo cho việc tranh tụng tại phiên tòa chưa hợp lý: hiện nay cơ chế để đảm bảo cho việc thực hiện tranh tụng tại phiên tòa còn nhiều vấn đề. Từ việc tạo hành lang pháp lý để tạo ra cơ chế, ý thức của người tham gia tranh tụng đến những quy chế kiểm tra giám sát để đảm bảo thực hiện, và rất nhiều vấn đề cần phải có sự quy định cụ thể để tạo ra một cơ chế đồng bộ chuẩn xác cho việc thực hiện tranh tụng.
Cơ sở vật chất chưa đáp ứng được yêu cầu: Một nguyên nhân cũng không kém phần quan trọng ảnh hưởng đến quá trình tranh tụng tại phiên tòa, đảm bảo tính trang nghiêm của Tòa án là cơ sở vật chất, trang thiết bị của ngành Tòa án phần lớn đã xuống cấp, lạc hậu, không phù hợp với yêu cầu của công tác xét xử trong tình hình mới. Ý thức pháp luật trong một bộ phận nhân dân vẫn còn hạn chế: tham gia vào quá trình tranh tụng còn có bị cáo, người bị hại, người liên quan v.v.. nhưng nhận thức, ý thức pháp luật trong một bộ phận nhân dân vẫn còn hạn chế. Họ tham gia vào các giai đoạn tố tụng còn chưa nắm vững được luật để bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho mình, nên chưa thể ý thức được rằng họ tham gia vào quá trình tố tụng ấy cũng là để bảo vệ pháp luật, giám sát việc thực thi pháp luật của các cơ quan tư pháp, nhất là hiện nay công tác hướng dẫn, tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật về lĩnh vực tư pháp chưa sâu rộng.
Tình trạng trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân kể cả chủ quan và khách quan, trong đó cũng có một phần do KSV nhận thức chưa đầy đủ, toàn diện về vai trò, tầm quan trọng của việc tranh tụng; việc tự học tập, nghiên cứu của KSV chưa đầy đủ; công tác đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng tranh tụng cho KSV còn hạn chế.
Để nâng cao chất lượng tranh tụng của KSV tại phiên tòa xét xử các vụ án hình sự, cần quán triệt các quy định:
Nắm chắc và đầy đủ các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng về cải cách tư pháp, quán triệt Chỉ thị 09 ngày 6/4/2016 về tăng cường các biện pháp nâng cao chất lượng tranh tụng của KSV tại phiên tòa của Viện trưởng VKSND Tối cao.
Nâng cao chất lượng tranh tụng của KSV phải tiến hành đồng bộ với các nội dung khác trong cải cách tư pháp, với cải cách hành chính;
Bảo đảm sự kế thừa các yếu tố truyền thống, kinh nghiệm tổ chức và hoạt động của nền tư pháp xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
Hoạt động nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa cần được tiến hành khẩn trương, tích cực, nhưng phải thận trọng và có những bước đi vững chắc, phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của đất nước và của địa phương…
Từ các quan điểm nêu trên, các giải pháp tiến hành phải toàn diện và đồng bộ, từ việc hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật có liên quan đến nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, phẩm chất, tinh thần trách nhiệm của KSV; tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo điều hành của lãnh đạo Viện kiểm sát; đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện, điều kiện làm việc; đổi mới chế độ và chính sách cho đội ngũ KSV nói chung và KSV tham gia hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử các vụ án hình sự nói riêng. Qua đó, cần có những giải pháp mang tính thiết thực và lâu dài như:
- Quán triệt, nâng cao nhận thức về vai trò, tầm quan trọng của việc tranh tụng tại phiên tòa cho toàn ngành, đặc biệt là kiểm sát viên, từ đó có nhận thức đúng về vấn đề tranh tụng. Quán triệt cho KSV nhận thức rõ việc tranh tụng tại phiên tòa không chỉ đánh giá kết quả hoạt động của cả giai đoạn điều tra, truy tố mà còn có ý nghĩa quyết định trong giai đoạn xét xử, thể hiện tính công bằng, công khai, minh bạch trong hoạt động tố tụng, nhằm bảo đảm quyền con người, giúp cho việc xét xử của Tòa án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, góp phần thực hiện thắng lợi công cuộc cải cách tư pháp của Đảng. Từ đó, KSV cần có sự chuyển biến thực chất về nhận thức, xác định tranh luận tại phiên tòa không chỉ là quyền mà còn là nghĩa vụ. Điểm cốt lõi để bảo đảm việc tranh luận tốt là phải nghiên cứu kỹ và nắm vững hồ sơ vụ án. Muốn vậy, KSV phải theo sát quá trình tố tụng ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình điều tra chứng minh tội phạm, hành vi phạm tội, bảo đảm để quá trình điều tra được khách quan, toàn diện và đầy đủ nhất về các tình tiết của vụ án, từ đó có sự chuẩn bị tốt nhất về nội dung tranh tụng. Từ đó, KSV mới củng cố được niềm tin nội tâm về tính xác thực của vụ án một cách cao nhất, đây cũng chính là yếu tố tâm lý rất cần thiết giúp KSV vững tin bước vào tranh luận. Song, cũng cần khắc phục tư tưởng bảo thủ đối với các lập luận để bảo vệ quan điểm truy tố khi có những tình tiết mới phát sinh tại phiên tòa, có khả năng làm thay đổi một phần hay toàn bộ nội dung của vụ án, cần được điều tra bổ sung.
-Kiểm sát viên phải thường xuyên tự học, tự nghiên cứu để nâng cao trình độ nghiệp vụ và kiến thức về mọi mặt, tích lũy kinh nghiệm thực tiễn, rèn luyện tác phong, phương pháp, kỹ năng tranh tụng. Tại phiên tòa, KSV là người đại diện cho Viện kiểm sát thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng trong vụ án. Chính vì vậy, đòi hỏi KSV khi thực hiện các thao tác, kỹ năng nghiệp vụ của mình tại phiên tòa phải bảo đảm những chuẩn mực cơ bản về “văn hóa”, nhất là văn hóa pháp lý trong xét hỏi, tranh tụng với Luật sư, người bào chữa... tại phiên tòa. KSV phải hết sức chú ý tác phong, tính kỷ luật, tính tôn nghiêm, phải luôn tập trung cao độ trong suốt quá trình xét xử. Có như vậy, mới bảo đảm hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ được giao. KSV cần tránh tình trạng nóng vội, phản ứng gay gắt, thiếu tập trung, lập luận, văn phong không rõ ràng, trình bày bản cáo trạng, luận tội một cách rời rạc v.v...
Để thực hiện tốt vai trò, trách nhiệm trong hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử các vụ án hình sự, KSV cần có bản lĩnh chính trị vững vàng, nắm vững các quy định về pháp luật hình sự, tố tụng hình sự, khoa học về chứng cứ, dấu vết, tâm lý tội phạm, đồng thời nắm vững các nguyên tắc cơ bản, những qui định mới trong các chuyên ngành luật khác. Phải thường xuyên rèn luyện tư duy logic, khả năng tổng hợp, phân tích đánh giá chứng cứ, dự kiến trước những tình huống có thể xảy ra tại phiên tòa và phương án giải quyết. Thường xuyên rèn luyện kỹ năng đọc, nói, viết, kỹ năng cảm hóa, giáo dục, thuyết phục người tham gia phiên tòa, nhất là kỹ năng tranh tụng. Biết kết hợp nhuần nhuyễn kiến thức pháp luật, kiến thức chuyên môn nghiệp vụ với sự hiểu biết tổng hợp về các môn khoa học xã hội, khoa học tâm lý, vốn sống, kinh nghiệm nghề nghiệp... khi thực hiện nhiệm vụ. Có tác phong làm việc, sinh hoạt với tinh thần trách nhiệm cao, tự giác, tận tụy, khiêm tốn, tôn trọng mọi người. Phải thường xuyên trau dồi phẩm chất đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, biết vượt qua chính mình, kiên quyết đấu tranh bảo vệ cái đúng, tôn trọng lẽ phải...
Kiểm sát viên phải thường xuyên tự mình đánh giá lại kết quả hoạt động sau mỗi phiên tòa; rút kinh nghiệm một cách nghiêm túc những thiếu sót, chú ý lắng nghe các ý kiến góp ý của đồng nghiệp, dư luận của công chúng với thái độ cầu thị để không ngừng hoàn thiện hơn kỹ năng nghiệp vụ của mình trong công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử sơ thẩm hình sự nói chung cũng như việc trình bày luận tội, tham gia tranh luận của KSV tại các phiên tòa hình sự sơ thẩm nói riêng.
-Ngành kiểm sát phải thường xuyên bồi dưỡng, đào tạo và đào tạo lại cho đội ngũ Kiểm sát viên, trong đó có chương trình chuyên sâu về kỹ năng tranh tụng. Để nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ KSV tham gia hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử các vụ án hình sự, bên cạnh những nỗ lực của KSV, hằng năm ngành Kiểm sát phải có kế hoạch đào tạo, đào tạo lại cho đội ngũ KSV tham gia hoạt động tranh tụng tại phiên tòa; thường xuyên hướng dẫn, kiểm tra về nghiệp vụ của cấp trên với cấp dưới để kịp thời khắc phục những thiếu sót để không ngừng nâng cao chất hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử các vụ án hình sự.
-Trường bồi dưỡng nghiệp vụ Kiểm sát cần soạn thảo các giáo trình mới đối với các bộ luật mới ban hành để giảng dạy, xây dựng nội dung chương trình phù hợp thực tiễn để tổ chức các lớp bồi dưỡng chuyên sâu về kỹ năng tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự. Lãnh đạo các đơn vị cơ sở cần đặc biệt quan tâm công tác đào tạo tại chỗ, nhất là việc bồi dưỡng, hướng dẫn kỹ năng tranh tụng. Hoạt động tranh tụng chỉ trở thành kỹ năng khi được thực hiện thường xuyên, thuần thục. Để nâng cao chất lượng tranh tụng, cần phải đặc biệt quan tâm tới việc bồi dưỡng, hướng dẫn cho KSV, nhất là kỹ năng đối đáp. Đây là việc làm rất cấp bách, nhằm trang bị cho KSV những kỹ năng cơ bản và cần thiết để KSV dựa vào đó thực hiện có bài bản và thống nhất trong quá trình tranh tụng. Việc bồi dưỡng có thể bằng việc lãnh đạo Viện trực tiếp tham gia phiên tòa để truyền thụ kinh nghiệm ,bồi dưỡng cho KSV hoặc giao nhiệm vụ cho những KSV có nhiều kinh nghiệm thâm niên công tác, KSV giỏi truyền đạt kinh nghiệm cho các KSV khác trong cùng đơn vị. Việc bồi dưỡng cũng có thể bằng cách tập huấn của Vụ, Phòng nghiệp vụ với các VKS cấp dưới. Tùy vào tình hình từng đơn vị mà mở những phiên tòa rút kinh nghiệm để học hỏi, đóng góp xây dựng hoàn thiện kỹ năng tranh tụng cho khoa học và lưu loát.
-Viện kiểm sát nhân dân các cấp cần tổ chức sơ kết rút kinh nghiệm hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên. Định kỳ hàng năm, Viện kiểm sát các cấp tiến hành sơ kết, ra thông báo chung về hoạt động tranh tụng của KSV gửi các đơn vị để cùng học tập, rút kinh nghiệm. Nơi nào có điều kiện nên tổ chức các cuộc thi về tranh luận tại phiên tòa để phổ biến kinh nghiệm, nâng cao năng lực, kỹ năng tranh luận tại phiên tòa.
Thực hiện tốt giải pháp nâng cao năng lực, trình độ cho KSV nêu trên có ý nghĩa hết sức quan trọng để nâng cao chất lượng tranh tụng của KSV tại phiên tòa xét xử các vụ án hình sự, góp phần thực hiện thành công nhiệm vụ cải cách tư pháp trong tình hình hội nhập hiện nay.
Nguyễn Ngọc Thắng